Tổng quan về Nhân sâm

45 views

Tên tiếng Việt: Nhân sâm, Viên sâm, Dã nhân sâm, Sâm cao ly, Sâm triều tiên

Tên khoa học: Panax ginseng C. A. Mey.

Họ: Ngũ gia bì Araliaceae

Công dụng: Bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yên tinh thần, định hồn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.

  1. Mô tả cây nhân sâm

Cây nhân sâm là một cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m. Rễ mọc thành củ to.

Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cây nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trở lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sâu. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả.

Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xanh nhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm.

Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường người ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống.

Mùa hoa: tháng 3-5; mùa quả tháng 6-8

  1. Phân bố sinh thái
  • Chi Panax L. có khoảng hơn 10 loài trên thế giới, phân bố ở vùng ôn đới Bắc bán cầu. Trong đó, nhân sâm là loài cây thuốc nổi tiếng trong nền y học dân tộc Phương Đông từ thời thượng cổ đến nay.
  • Nhân sâm có vùng phân bố tự nhiên chủ yếu ở vùng núi thuộc Viễn Đông Liên bang Nga, phía bắc CHDCND Triều Tiên và Trung Quốc. Cây đã được trồng từ lâu đời ở bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc và Liên bang Nga. Những năm gần đây, cây còn được nhập trồng ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và cả ở Việt Nam. Tuy nhiên qua nhiều lần trồng thử nghiệm, cho đến nay đều chưa thành công ở Việt Nam.
  • Nhân sâm là cây của vùng ôn đới. Cây ưa khí hậu ẩm mát về mùa xuân hè và chịu đựng tốt trong điều kiện nhiệt độ thấp, với 3-4 tháng có băng tuyết của mùa đông. Mặc dù vậy, lượng mưa ở những vùng có nhân sâm mọc tự nhiên cũng như vùng trồng thường thấp hơn nhiều (chỉ bằng 50%) so với ở vùng nhiệt đới. Nhân sâm là cây đặc biệt ưa bóng. Trong tự nhiên, cây mọc dưới tán rừng kín, lẫn trong tầng cỏ quyết. Chính vì vậy, người ta phải trồng nhân sâm trong điều kiện vườn có mái che tới trên 80%. Để thích nghi với thời kỳ có nhiệt độ thấp trong năm, toàn bộ phần trên mặt đất của cây bị tàn lụi qua mùa đông. Chồi ngủ ở đầu rễ củ hình thành ngay từ giữa mùa hè, trong suốt mùa thu – đông tồn tại trong trạng thái “ngủ” và chỉ mọc lên khỏi mặt đất vào đầu mùa xuân năm sau. Cây nhân sâm trưởng thành (khoảng 3-4 tuổi) ra hoa quả hàng năm. Quả chín rơi xuống tầng thảm mục sẽ tồn tại qua mùa đông và nảy mầm vào mùa xuân năm sau. Hạt nhân sâm khô nhìn chung có khả năng nẩy mầm tương đối thấp. Do đó, người ta thường phải gieo hạt lúc còn tươi.
  • Cây được trồng bằng hạt, thời gian gieo thường vào cuối tháng 10-11.
  • Cây sau 6 năm có thể thu hoạch được. Nhân sâm thường được thu hoạch vào mùa thu (từ tháng 9 đến tháng 10) đào củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại sâm tốt để chế hồng sâm, loại kém để chế bạch sâm.
  1. Bộ phận dùng
  • Rễ cây nhân sâm, thu hoạch vào mùa xuân và mùa thu.
  • Người ta cho rằng loại mọc hoang tốt hơn loại trồng.
  • Trong y học cổ truyền, người ta phân biệt hai loại chính: hồng sâm và bạch sâm.
  1. Thành phần hoá học
  • Thành phần Saponin gồm các ginsenosides: Ginsenosides Ro, Re, Rg1, Rg2, Rg3, Rh1, Rh2, Ra1, Ra2,… Các ginsenosides này có tác dụng: giải độc, chống viêm gan, tác dụng kiểm soát kết tập tiểu cầu, tác dụng kháng tiểu đường, tránh xơ cứng động mạch, tác dụng làm giảm đau liên quan đến tế bào thần kinh não, tác dụng tăng cường sinh lý, tác dụng hạ đường huyết, chống tiểu đường, tác dụng chống loét dạ dày…
  • Trong đó, thành phần Rh2, Rg3 có tác dụng khống chế và kìm hãm sự phát triển của khối u, ngăn ngừa bệnh ung thư. Hiện nay, bằng công nghệ tiên tiến hơn, các nhà khoa học đã sử dụng thành phần Rh2, Rg3 từ Hồng Sâm để chế biến các loại thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư, dùng để hỗ trợ trong việc điều trị các bệnh ung thư.
  • Các thành phần Malnonyl Rb1, Rb2, Rc, Rd có tác dụng chống lão hóa, chống lại quá trình lão hóa của cơ thể duy trì thể trạng và kéo dài tuổi xuân. Nhờ vào các hoạt chất này, các ngành chăm sóc sắc đẹp  đã chế tạo ra nhiều loại kem Hồng Sâm chống lão hóa, làm đẹp da, làm giảm các vết nám mang lại nét đẹp rạng ngời cho các chị em phụ nữ.
  • Ngoài các thành phần ginsenosides, Malnonyl, Nhân Sâm chứa 7 hợp chất polyacetylen, 17 axit béo (axit palnitic, axit stearic, oleic, ) trong đó có đủ 8 loại axit cần thiết cho cơ thể và 20 nguyên tố hóa học Fe, Mn, Co, Se, K. Các thành phần khác là glucid, tinh dầu… cung cấp đầy đủ những vi chất cần thiết cho cơ thể.

.

  1. Tính vị, công năng
  • Nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào các kinh: tỳ, phế, tâm, có tác dụng đại bổ nguyên khí, phục mạch cố thoát, sinh tân, an thần, bổ tỳ ích phế.
  • Sách “Bản kinh” (Trung Quốc) còn ghi nhân sâm chủ bổ ngũ tạng, an thần kinh, chỉ kinh quý, trừ tà khí, minh mục, khai tâm tích trí.
  1. Công dụng và liều dùng
  • Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhận sâm bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yên tinh thần, định hồn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.
  • Nhân sâm là một vị thuốc bổ quý hiếm trong y học cổ truyền, làm tăng thể lực và trí lực, dùng trong trường hợp cơ thể suy yếu, kiệt sức, mệt mỏi và trong thời gian dưỡng bệnh. Ngoài ra, dược điển một số nước có ghi nhân sâm dùng chữa bệnh tim mạch, tiểu đường, thần kinh suy nhược, dương ủy. Theo y lý cổ truyền, nhân sâm chủ trị: thở khó ho hen, tim đập hồi hộp, gây tràn dịch tổn thương, miệng khát, đái đường, suy nhược cơ thể, mất máu, dương ủy, lạnh cung, tỳ hư tiết tả.
  • Liều dùng: ngoài những chỉ định đặc biệt (như dùng cho cấp cứu), liều thường dùng hàng ngày là 2-4g. Dùng dưới dạng lát cắt ngậm, nước sắc, rượu thuốc, cao hoặc hoàn tán. Nhân sâm dùng phối hợp với phụ tử chữa vong dương hư thoát, khó thở, chóng mặt, ra mồ hôi nhiều; với đương quy chữa mất máu nhiều và đột ngột, khí đoản mạch vi; với long cốt chữa di tinh; với tỳ bà chữa ợ chua; với hoàng kỳ chữa âm hư triều nhiệt, ho, nôn ra máu; với ngũ vị tử chữa nguyên khí bất túc; với tam thất chữa hư lao, chảy máu, hãn huyết đục thoát; với thục địa chữa nhiệt bệnh, khí thương, tân quỵ ; với thạch cao chữa tiểu đường.

Những điều chú ý khi dùng nhân sâm:

  1. Trường hợp thực chứng, nhiệt chứng, phàm tỳ vị nhiệt thực, phế thu hỏa tà, ho nhiều đờm, táo bón, nấc, đau tức ngực, bụng có trùng tích đều không dùng nhân sâm.
  2. Tương kỵ: Nhân sâm phản lê lô, ố tạo giác, hắc đậu nên không được dùng chung. Không dùng dụng cụ bằng sắt khi chế nhân sâm.
  3. Một số kết quả thực nghiệm lâm sàng trong y học hiện đại
  4. Trong cấp cứu: Nhân sâm dùng với liều lớn (9 – 20g) sắc nước uống hoặc dùng dung dịch tiêm nhân sâm (mỗi ml có 0,57g dược liệu) 2 – 4ml tiêm bắp thịt hoặc tiêm tĩnh mạch, dùng cấp cứu các trường hợp sốc tim nguy kịch.
  5. Điều trị các bệnh tim mạch:Đối với bệnh cao huyết áp, loạn dưỡng cơ tim, xơ vữa động mạch vành, đau thắt ngực, nhân sâm có tác dụng điều trị nhất định, làm giảm nhẹ triệu chứng. Đối với huyết áp không bình thường, nhân sâm có tác dụng điều chỉnh, dùng liều nhỏ, nhân sâm có tác dụng làm tăng huyết áp, nhưng với liều cao lại có tác dụng hạ áp.
  6. Trong điều trị bệnh tiểu đường

Nhân sâm có tác dụng cải thiện trạng thái chung của bệnh nhân tiểu đường, nhưng không thay đổi được tình trạng đường huyết quá cao. Đối với bệnh tiểu đường thể nhẹ, nhân sâm có khả năng làm giảm đường niệu, đường huyết. Sau khi ngừng thuốc, tác dụng có thể duy trì trong vòng 2 tuần lễ. Đối với bệnh tiểu đường thể vừa, sau khi dùng nhân sâm tuy lượng đường huyết không giảm rõ rệt nhưng đa số bệnh nhân tình trạng toàn thân đều được cải thiện như cảm giác mệt mỏi, miệng khá đều giảm hoặc biến mất. Ở một số bệnh nhân dùng nhân sâm có thể giảm liều dùng insulin.

  1. Điều trị thần kinh suy nhược

Đối với hệ thần kinh trung ương, nhân sâm có tác dụng gây hưng phấn rõ rệt, tăng cường năng lực hoạt động của cơ thể, giảm mệt mỏi, đối với suy nhược thần kinh có tác dụng điều trị tốt, làm cho bệnh nhân tăng cân, giảm mệt mỏi, giảm đau đầu và ngủ được.

  1. Chữa dương ủy:

Trong trung dược, nhân sâm thuộc loại thuốc cường tráng thân thể, bổ dưỡng nguyên khí. Đối với dương ủy thể liệt dương và thể xuất tinh sớm, nhân sâm có tác dụng, còn đối với dương ủy có nguyên nhân tâm thần thì không có tác dụng.

  1. Điều trị chứng bệnh suy thượng thận mãn (Addison)

Theo Vương Bản Tường (Trung Quốc) đã nghiên cứu trên 18 bệnh nhân Addison, cho uống cồn chiết từ thân lá nhân sâm (20%) với liều 20 – 30ml/ngày và tăng dần đến 150 – 300ml/ngày. Đợt điều trị kéo dài 121 ngày. Sau khi dùng thuốc, bệnh nhân tăng cân, huyết áp được nâng lên, lực nắm bàn tay mạnh hơn, đường huyết hồi phục, giảm lắng đọng sắc tố ở da; đối với bệnh nhân phát hiện sớm ở giai đoạn bù trừ, kết quả điều trị khả quan, có thể phục hồi khả năng lao động. Đối với bệnh nhân phát hiện muộn không còn khả năng bù trừ, cần dùng kết hợp corticoid có giảm liều.

  1. Điều trị chứng giảm bạch cầu

Saponin chiết từ thân, rễ và lá nhân sâm dùng với liều 50 – 100mg/lần, ngày uống 2-3 lần, điều trị cho 38 trường hợp giảm bạch cầu do hóa liệu, kết quả điều trị đạt 87%.

  1. Điều trị viêm gan cấp: 

Theo báo cáo của tác giả Liên Xô trước đây, uống cao lỏng nhân sâm có khả năng làm cho chức năng gan hồi phục nhanh chóng và làm giảm khả năng bệnh chuyển thành mạn tính. Nhân sâm phối hợp với các vị thuốc khác dùng chữa nhiều bệnh.

Cách dùng trong nhân dân như sau: 

  • Sâm thái mỏng, cho vào miệng ngậm và nhai từng ít một, nuốt nước và cả bã.
  • Thái mỏng, cho vào ấm hay chén sứ. Thêm một ít nước đậy nắp. Đun cách thuỷ, uống nước. Sau đó lại thêm nước và đun cách thuỷ tiếp tục uống, làm như vậy cho đến khi hết mùi vị mới thôi. Ngày dùng 2-6g.
    Nhân sâm có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí. Dùng chữa phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Những người bệnh có thực tà không dùng được. Không dùng được với lê lô, ngù linh chi.

Đơn thuốc có nhân sâm trong đông y : 

  1. Độc sâm thang (đơn thuốc có một vị nhân sâm) chữa cá thể quá suy nhược sau khi mất máu nhiều, thần kinh suy nhược:Nhân sâm 40g. Nước 400ml (2 bát) sắc còn 200ml (1 bát), cho uống từng ít một, không kể thời gian. Uống xong cần nằm yên.
  2. Sâm phụ thang chữa những trường hợp mạch suy, kiệt, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh: Nhân sâm 40g (có thể 20g), chế phụ tử 20g (có thể dùng l0g), sinh khương 3 nhát, táo đen 3 quả, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml (1 bát) chia làm nhiều lần uống trong ngày.

Những vị thuốc dùng thay nhân sâm: Trên thị trường hiện nay có nhiều vị dùng lầm với tên nhân sâm như thổ cao ly sâm, bô’ chính sâm v.v… còn có vị thái tử sâm hay hài nhi sâm được vùng Giang Tô Trung Quốc dùng thay nhân sâm và cũng có khi đưa bán ở nước ta.

  1. Chữa tì vị khí hư, mặt nhợt nhạt, chân tay đau mỏi, không muốn ăn, nôn mửa (Tứ quân tử thang): Nhân sâm 10g, bạch truật 9g, phục linh 9g, cảm thảo (trích) 6g. Tất cả tán thành bột. Mỗi lần dùng 6g sắc với 200ml nước, còn 150 ml, uống không kể thời gian.
  2. Chữa bệnh tiểu đường (Ngọc hồ hoàn): Nhân sâm, rễ qua lâu, 2 vị lượng bằng nhau. Nghiền thành bột mịn luyện với mật, làm thành hoàn to bằng hạt đậu, mỗi lần uống 20 hoàn với thang Mạch môn đông.
  3. Chữa ợ chua, nôn ra nước trong, đau bụng, biếng ăn, ở phụ nữa có mang (Tiểu địa hoàng hoàn cục phương): Nhân sâm (bỏ cuống), can khương, 2 vị lượng bằng nhau. Nghiền thành bột, dùng nước ép sinh địa tươi nhào bột, làm thành viên hoàn to bằng hạt đậu. Mỗi lần uống 30 – 50 hoàn với nước cháo gạo trước bữa ăn.
  4. Chữa ngoại cảm phong hàn, phát sốt sợ rét, đau đầu ngạt mũi, ho nhiều đờm (Sâm tô ẩm): Nhân sâm, tô diếp, cát căn, tiền hồ, bán hạ, phục linh mỗi vị 22,5g, trần bì, cam thảo, cát cánh, chỉ xác, mộc hương mỗi vị 15g tán nhỏ trộn đều: Mỗi lần dùng 12g, nước 150ml, gừng 7 lát, táo 1 quả. Sắc uống lúc còn nóng.
  5. Chữa tâm khí bất định, ngũ tạng bất túc, hoảng hốt, ngủ hay mơ, hay nổi nóng, phát khùng:Nhân sâm, bạch phục linh mỗi vị 90g, viên chí (bỏ tâm), xương bổ mỗi vị 60g. Nghiền thành bột, luyện với mật ong, làm thành hoàn to bằng hạt đậu, dùng chu sa làm vỏ bao. Mỗi lần dùng 7 hoàn, ăn với cơm nóng, xong nằm nghỉ. Ngày dùng 3 lần.

Trích nguồn: http://tracuuduoclieu.vn/

  • Bình luận Facebook
  • Bình luận mặc định

Ý kiến của bạn

Ý kiến của bạn